Th 4, 07/07/2021 | 14:18 CH

Xem với cỡ chữ Đọc bài viết Tương phản

Những bước đi đầu tiên trên chặng đường tự động hóa tại Cục Sở hữu trí tuệ

Nhìn lại chặng đường đã qua ghi nhận nhiều dấu ấn cũng như thành tích đạt được kể từ khi áp dụng tự động hóa, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) đã gần như chuyển đổi hoàn toàn từ công cụ lao động thủ công, nhiều sai số sang áp dụng phần mềm quản trị tập trung, nâng cao tiến độ, chất lượng và đây cũng chính là nền tảng để Cục SHTT bước vào giai đoạn công nghệ 4.0.

Lời giới thiệu
 
Năm 2021 đánh dấu 21 năm kể từ khi Cục SHTT áp dụng công nghệ hiện đại để ứng dụng vào quá trình quản trị đơn sở hữu công nghiệp (SHCN). Tháng 4/2000, Cục SHTT chính thức khai trương Dự án Hiện đại hóa quản trị sở hữu công nghiệp (Dự án MOIPA-Modernization of Industrial Property Administration) dưới sự giúp đỡ của Chính phủ Nhật Bản thông qua Cơ quan Hợp tác quốc tế JICA.
 
Kể từ khi áp dụng tự động hóa trong quá trình quản trị đơn SHCN, Cục SHTT đã gần như chuyển đổi hoàn toàn từ công cụ lao động thủ công, nhiều sai số sang áp dụng phần mềm quản trị tập trung, nâng cao tiến độ, chất lượng và đây cũng chính là nền tảng để Cục SHTT bước vào giai đoạn công nghệ 4.0 trong quá trình chuyển đổi số - tiến tới một hệ thống quản trị hiện đại hơn, thân thiện và hữu ích hơn phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao.
 
Hiện nay, các thao tác nghiệp vụ xác lập quyền SHCN tại Cục SHTT gần như được tự động hóa hoàn toàn dựa trên một hệ thống máy tính mạnh và cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật kịp thời. Việc sử dụng công nghệ không chỉ khiến cho năng suất và hiệu quả công việc được tăng lên đáng kể mà còn làm cho người thực hiện công việc đỡ vất vả hơn rất nhiều so với những năm 1990.
 
Nhân dịp kỷ niệm 39 năm thành lập Cục SHTT (29/7/1982 – 29/7/2021), xin được ôn lại vài kỷ niệm về những ngày khó khăn mà Cục đã trải qua và những nỗ lực để đi những bước đầu tiên trên con đường cải tiến các thao tác nghiệp vụ theo hướng tự động hóa mà Cục SHTT đã thực hiện trong những năm 1990 đến nay.
 
 
Quá trình trước khi hiện đại hóa
 
Trước năm 1993: các thao tác nghiệp vụ hoàn toàn được thực hiện thủ công
 
Việc tiếp nhận, xử lý các đơn đăng ký nhãn hiệu và sáng chế được Cục Sáng chế chính thức triển khai vào giữa năm 1983, còn kiểu dáng công nghiệp và giải pháp hữu ích thì từ năm 1989 với các thủ tục và trình tự cơ bản vẫn như ngày nay. 
 
Theo quy định, để đăng ký, người nộp đơn phải chuẩn bị một bộ hồ sơ bằng giấy, trong đó mỗi loại tài liệu của hồ sơ đều phải được làm thành 03 bản (riêng mẫu nhãn hiệu phải có 10 bản). Đơn được tiếp nhận tại Phòng Đăng ký và được cán bộ nhận đơn kiểm tra về hình thức (loại tài liệu, số bản mỗi loại, sự đáp ứng các yêu cầu về hình thức trình bày…). Người nộp đơn được cấp Giấy biên nhận đơn, trong đó có ghi họ tên, địa chỉ người nộp đơn và danh mục các tài liệu có trong đơn. Sau đó, đơn sẽ được chuyển cho các Phòng xét nghiệm (nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng) - nay là các Trung tâm Thẩm định - để thực hiện việc thẩm định về hình thức và nội dung. Đơn đã qua thẩm định được trả lại cho Phòng Đăng ký để thực hiện các thủ tục hành chính phù hợp. Trên cơ sở kết quả xử lý đơn, Phòng Đăng ký có trách nhiệm chuẩn bị ít nhất 3 loại văn bản: Quyết định cấp văn bằng bảo hộ, Đăng bạ và Văn bằng bảo hộ.
 
Có hàng loạt thao tác thủ công cần phải thực hiện kể từ khi đơn được tiếp nhận (kiểm tra số tài liệu và số bản mỗi loại có trong đơn, kiểm tra hình thức, vào sổ nhận đơn, cấp giấy biên nhận…) cho đến khi văn bằng bảo hộ được cấp cho chủ sở hữu (ghi các thông tin pháp lý liên quan đến quyền SHCN được cấp lên văn bằng bảo hộ: số văn bằng, số đơn, ngày nộp đơn, ngày ưu tiên, ngày cấp văn bằng, họ tên chủ văn bằng, tên nhãn hiệu/sáng chế, mẫu nhãn hiệu, hình ảnh kiểu dáng, v.v.).
 
Vào những năm cuối 1980 và đầu 1990, có thể nói chưa có khái niệm tự động hóa/điện tử hóa trong công việc tại Cục. Máy tính cá nhân (PC) còn rất xa lạ. Cục chỉ được trang bị vài máy 386 nhưng được ưu tiên cho việc lập kho dữ liệu nhãn hiệu. Việc đánh máy văn bản chỉ trông chờ vào khoảng chục chiếc máy đánh chữ cơ khí và vài ba chiếc máy in loại 9 kim. Ngay cả việc in ấn cũng phải thực hiện bằng máy ronéo tại xưởng in của Bộ.
 
Trong điều kiện như vậy, việc chuẩn bị các văn bản phục vụ cho việc cấp văn bằng bảo hộ được thực hiện cơ bản bằng cách thủ công vừa mất công, mất sức, mất thời gian, vừa rất dễ gặp trục trặc, sai sót.
 
Chẳng hạn, để có văn bằng bảo hộ, người thực hiện phải đưa “phôi” vào máy đánh chữ để điền các thông tin vào chỗ trống thích hợp. Việc này đòi hỏi phải chính xác tuyệt đối đồng thời phải đảm bảo yêu cầu về mặt hình thức. Đôi khi, vì máy đánh chữ đã quá cũ cho nên chữ bị lệch dòng, thiếu nét… Đó là chưa kể những lỗi đánh máy về nội dung như nhầm lẫn ngày tháng, tên tuổi v.v..   
 
   
 
Đăng bạ sáng chế số 01
 
   Đăng bạ nhãn hiệu số 01
 
Một trong những công việc mất nhiều công sức và thời gian nhất là chuẩn bị Bằng sáng chế/giải pháp hữu ích. Khác với các loại văn bằng bảo hộ khác, Văn bằng bảo hộ sáng chế/giải pháp hữu ích luôn phải kèm theo Bản mô tả và Yêu cầu bảo hộ. Việc này được thực hiện bằng cách chép lại bản mô tả gốc có trong đơn nhưng đã được rà soát, hiệu chỉnh trong quá trình thẩm định. Khi chép lại, cán bộ không những phải đọc cho chính xác những nội dung vốn có trong bản gốc mà nhiều khi còn phải phán đoán những chỗ được người nộp đơn/cán bộ thẩm định sửa chữa bằng tay. Với những sáng chế có bản mô tả dài hàng trăm trang, lại có kèm theo nhiều công thức, bảng biểu, hình vẽ… thì công việc càng nặng nề. Nói chung, đây là loại công việc đơn điệu, thậm chí nhàm chán.
 
Còn có nhiều công việc khác cũng tẻ nhạt và tốn rất nhiều công sức, thời gian. Chẳng hạn như việc dán mẫu nhãn hiệu, dán tem bảo đảm lên văn bằng bảo hộ. Để thực hiện việc này, phải sử dụng loại hồ dán văn phòng làm bằng bột gạo trộn hóa chất chống gián nhấm đựng trong lọ như lọ mực học trò, sau này có điều kiện thì dùng loại hồ dán đặc biệt do các cán bộ đi công tác ở nước ngoài mua về. Mỗi văn bằng bảo hộ nhãn hiệu phải dán cả hai thứ đó bằng cách như vậy.
 
Số đơn đăng ký trong giai đoạn này còn khá ít cho nên mặc dù được thực hiện bằng thủ công, Phòng Đăng ký vẫn bảo đảm hoàn thành các công việc được giao mà không gây nên sự tắc nghẽn, ùn ứ. Trong giai đoạn từ 1981-2000, tổng số đơn đăng ký sáng chế chỉ khoảng gần 8000 đơn, kiểu dáng công nghiệp khoảng trên 10.000 đơn và nhãn hiệu chiếm số lượng lớn nhất khoảng trên 50.000 đơn.
 
1994 – 2000: bước đầu sử dụng máy tính trong công việc
 
Giai đoạn này, Cục SHTT chưa có một phần mềm quản trị tập trung dành cho các đối tượng SHCN. Kể từ lúc người nộp đơn nộp vào Phòng Đăng ký, dữ liệu hồ sơ không được quét vào máy tính để lưu trữ mà chỉ được nhập một số thông tin thư mục vào các tệp tin riêng lẻ để phục vụ quản lý (chủ yếu là foxpro và sau này là Microsoft Access), ngoài ra các thông tin chính (số đơn, ngày nộp, tên giải pháp, tên nhãn hiệu…) được ghi vào sổ giấy để nhằm mục đích giao nhận, ký nhận giữa các phòng chuyên môn.
 
Những năm đó chưa có điều kiện lập dự án lớn. Cán bộ Phòng Đăng ký đã tự mày mò lập chương trình quản trị đơn để sử dụng. Như đã nói ở trên, máy tính mạnh nhất chỉ có máy 386, máy in chỉ có máy in 9 kim và 24 kim, phần mềm quản trị dữ liệu có phần mềm FOXPRO, phần mềm tiếng Việt có BKAV và VIETRES. Việc in ấn đã nhanh chóng hơn, không có lỗi. Nếu giở xem những trang đăng bạ của năm 1994, 1995 thì sẽ thấy việc in chèn sử dụng máy in nhưng cũng còn khá thô sơ.
 
Khi đơn được chuyển lên các phòng chuyên môn thì lại được nhập vào các tệp tin một lần nữa, lúc này đơn sẽ được bổ sung thêm các trường thông tin chuyên sâu tùy theo đối tượng (tên sáng chế, phân loại IPC, phân loại Locarno, phân loại NICE, phân loại hình VIENNA, v.v), sau đó quá trình giao đơn cho các xét nghiệm viên (hiện nay gọi là thẩm định viên) sẽ phát sinh thêm các thông tin như ngày chấp nhận đơn, ngày công bố A, thông tin về đối chứng, ý kiến cuối cùng, ý kiến phản hồi…
 
Trong giai đoạn này, các xét nghiệm viên còn phải thao tác thủ công rất nhiều và sử dụng các hệ thống riêng lẻ, không kết nối vào nhau được. Ví dụ như việc lập Phiếu phân loại hình VIENNA của đơn nhãn hiệu: một đơn có 5 phân loại hình thì sẽ được lập thành 5 phiếu khác nhau, mỗi phiếu có các thông tin thư mục giống hệt nhau chỉ khác ở phân loại VIENNA, sau đó các phiếu được bỏ vào các khay để phục vụ việc tra cứu phân loại hình về sau.
 
Một trong những ví dụ về tính phân mảnh của dữ liệu khi thẩm định đơn nhãn hiệu, xét nghiệm viên phải tra ít nhất 3 hệ thống khác nhau: (i) dữ liệu quốc gia; (ii) dữ liệu quốc tế (iii) kho phiếu giấy phân loại hình VIENNA. Sau đó tổng hợp kết quả lên Phiếu xét nghiệm bằng giấy, tất cả các thông tin thư mục của đơn lại phải viết tay lại một lần nữa. Các ý kiến của xét nghiệm viên 1, xét nghiệm viên 2 và Lãnh đạo phòng đều không được ghi nhận điện tử nên rất khó để phục vụ việc tra vấn sau này.
 
Khi hồ sơ được chuyển xuống phòng Đăng ký để làm thủ tục cấp Bằng (hoặc Giấy Chứng nhận) thì các thông tin sau khi cấp chỉ được lưu giữ tại phòng Đăng ký mà không bộ phận nào biết để cập nhật thông tin phục vụ việc xét nghiệm hoặc quản trị đơn.
 
 
 
Tủ đựng phiếu phân loại hình Vienna
 
Dự án MOIPA- Mở đầu cho quá trình hiện đại hóa quản trị SHCN tại Cục SHTT
 
Lễ ký Bản ghi nhớ cho dự án MOIPA, ngày 15/12/1999 tại Hà Nội.
 
Năm 2000, Cục SHTT chính thức khai trương dự án MOIPA - Dự án Hiện đại hóa quản trị sở hữu công nghiệp được xây dựng theo hình thức chuyển giao kỹ thuật dưới sự giúp đỡ của Chính phủ Nhật Bản thông qua Cơ quan Hợp tác quốc tế JICA. Mục tiêu của Dự án trước tiên là cải tiến công nghệ xử lý các đơn đăng ký SHCN, thông qua việc áp dụng tiêu chuẩn với bất kỳ công đoạn nghiệp vụ nào, từ khi đơn nộp vào cục cho tới khi có quyết định cuối cùng về khả năng cấp Văn bằng bảo hộ, nhờ đó nâng cao tính tin cậy, nhất quán, hạn chế các sai sót trong quá trình xử lý đơn và tạo điều kiện để quản lý một khối lượng ngày càng lớn các đơn đăng ký SHCN cũng như theo dõi hiệu lực Văn bằng đã cấp. 
 
Nguyên Cục trưởng Phạm Đình Chướng phát biểu khai trương dự án MOIPA, tháng 4/2000 tại Hà Nội.
 
Tổ công tác (Counterpart) đầu tiên của dự án MOIPA, ảnh chụp năm 2001.
 
Ngoài việc cử 04 chuyên gia dài hạn (mỗi nhiệm kỳ 2 năm, gồm các chức danh Cố vấn trưởng, Điều phối viên, Chuyên gia SHCN và Chuyên gia CNTT), phía Nhật Bản cũng cử các chuyên gia ngắn hạn (từ 1-6 tháng) sang làm việc tại trụ sở Cục. Phía Cục SHTT cũng có bộ máy tương ứng gồm Cục trưởng (ông Phạm Đình Chướng- kiêm Giám đốc Dự án), Quản trị dự án (ông Phan Phụng Tuân, nguyên Trưởng phòng Đăng ký, sau là Trưởng phòng Công nghệ thông tin) và đội ngũ đối tác toàn thời gian và bán thời gian đến từ các đơn vị chuyên môn.
 
Trong giai đoạn từ 2001-2010, lượng đơn đã tăng đáng kể so với giai đoạn 10 năm trước đó, tổng số đơn đăng ký sáng chế khoảng gần 22.000 đơn, kiểu dáng công nghiệp khoảng gần 14.000 đơn và nhãn hiệu chiếm số lượng lớn nhất khoảng gần 200.000 đơn.
 
Khi Dự án đi vào hoạt động đã tạo một bước chuyển biến lớn, căn bản đến toàn bộ quá trình vận hành bộ máy chuyên môn ở Cục SHTT, dự án tập trung vào xây dựng một phần mềm quản trị IPAS với hàng loạt các chức năng khác nhau, liên quan đến hầu hết các phòng ban trong Cục, ngoài ra còn có các hoạt động khác có thể kể đến như:
 
- Xây dựng một phòng máy chủ, xây dựng hệ thống mạng nội bộ (LAN) kết nối đến các đơn vị trong Cục. Các phòng ban chuyên môn đều có máy tính tham gia hệ thống mạng.
 
- Trang bị phần cứng như máy chủ, máy trạm, máy in, máy quét, giá đỡ, máy đọc mã vạch, v.v. cho các thẩm định viên và các phòng chuyên môn
 
- Thành lập Văn phòng SHCN Việt-Nhật (tiền thân của Phòng Công nghệ thông tin, nay là Trung tâm Công nghệ thông tin), đào tạo đối tác toàn thời gian và bán thời gian ở trong và ngoài nước: đội ngũ đối tác nguyên là các thẩm định viên lâu năm, có kinh nghiệm và có năng lực thích ứng với hệ thống mới được cử đi học các lớp chuyên môn về CNTT trong nước, một phần trong số đó được cử đi đào tạo chuyên sâu tại Nhật Bản và sau khi trở về đều là cán bộ nòng cốt của dự án, phục vụ tốt cho việc hoàn thành dự án.
 
- Xây dựng một cơ sở dữ liệu tập trung, các đơn vị chuyên môn đều tham gia vào quá trình tạo lập, cập nhật và lưu trữ phục vụ công việc quản lý. Các chuyên gia đã phân tích và chuyển đổi dữ liệu riêng lẻ từ các đơn vị chuyên môn để tạo lập một cơ sở dữ liệu dùng chung, bất cứ lúc nào cũng có thể truy cập và lấy thông tin để phục vụ công việc chuyên môn, công tác quản lý, từ khâu nhập dữ liệu, thẩm định đơn, công bố, cấp bằng, theo dõi hiệu lực… đều tham gia trong một chu trình an toàn và khép kín.
 
- Thay đổi toàn bộ hệ thống công văn, giấy tờ liên quan trong quá trình quản trị: Toàn bộ các công văn, giấy tờ trước đây của các đơn vị đều được chuẩn hóa và thiết kế để phù hợp với hệ thống quản trị đơn, thống nhất chung các mẫu để sao cho vừa phù hợp với quy định pháp luật nhưng cũng phù hợp với việc lập trình của các kỹ sư CNTT. Khi sử dụng hệ thống thì không có những thao tác thừa do vậy giảm thiểu tối đa các sai sót và tính không thống nhất trước đây.
 
- Ngoài ra các kỹ sư thiết kế hệ thống đã đánh số các đối tượng SHCN theo mã số, ví dụ số đơn sáng chế mã hóa là 1, giải pháp hữu ích là 2, kiểu dáng công nghiệp là 3, nhãn hiệu là 4…tiếp theo là số năm đơn được nộp vào, và sau đó là dãy 5 chữ số thể hiện thứ tự đơn đó được nộp (ví dụ số đơn 1-2000-00001 là đơn sáng chế, nộp năm 2000 và có số thứ tự là 1), các hệ thống khác cũng được mã hóa tương tự ví dụ Sửa đơn là SĐ, Chuyển nhượng là CN, Khiếu nại là KN, Đình chỉ là ĐN, Cấp lại là RB… Hệ thống cho số công văn, quyết định tự động được áp dụng, vừa thống nhất với hệ thống số công văn, quyết định của Văn phòng vừa giảm thiểu được thời gian ghi số thủ công, tránh sai sót. Hệ thống này hằng năm đã cấp ra hàng trăm nghìn công văn liên quan đến quá trình thẩm định các đối tượng SHCN tại Cục.
 
 
Sơ đồ và tóm tắt nội dung hoạt động của dự án MOIPA
 
 
Phần mềm IPAS
 
IPAS được viết tắt từ Industrial Property Administrator System (Hệ thống quản trị SHCN) là một sản phẩm chính của Dự án MOIPA. Hệ thống đã áp dụng công nghệ thông tin bằng việc xây dựng một cơ sở dữ liệu tập trung để quản lý quá trình xử lý đơn SHCN ở tất cả các khâu từ khi nộp đơn, thẩm định hình thức, thẩm định nội dung, công bố, đăng bạ, cấp bằng, theo dõi hiệu lực. Các kỹ sư của công ty Fujitsu Việt nam là người lập trình cho Hệ thống này. Các tính năng chính của hệ thống như sau:
 
Nhập dữ liệu:
 
Cho phép nhập, lưu giữ thông tin thư mục, ảnh quét của đơn, mẫu nhãn, ảnh kiểu dáng công nghiệp…ngoài ra còn có chức năng nhập các tài liệu trung gian trong quá trình xem xét, xử lý đơn, thẩm định hình thức và thẩm định nội dung:
 
Cho phép thẩm định viên sửa đổi các dữ liệu thư mục hoặc hình ảnh, tạo các phiếu thẩm định trên cơ sở các lý do chuẩn, lý do riêng, thêm các tài liệu đối chứng…Ngoài ra còn có chức năng chuyển đơn trình ký đến các cấp lãnh đạo, theo dõi thời hạn thẩm định, chuyển đơn đã ký duyệt để gửi công văn đi.
 
Công bố:
 
Cho phép lấy các thông tin phù hợp để tạo nên các bản nháp, bản gộp để làm nên quyển Công báo A và B, sau đó các thông tin như số công bố, ngày công báo được cập nhật trở lại hệ thống.
 
Cấp văn bằng, Đăng bạ:
 
Cho phép theo dõi các đơn đã có kết luận bảo hộ, đủ điều kiện đóng phí, sau đó gán tự động số văn bằng tương ứng với các đơn đã đủ điều kiện và cập nhật các dữ liệu sau khi đã được cấp bằng vào hệ thống.
 
Các chức năng khác:
 
Ngoài các chức năng chính kể trên, hệ thống còn có các chức năng như chức năng tra vấn, chức năng định vị hồ sơ (cho biết hồ sơ đang ở phòng ban nào, cán bộ nào giữ), chức năng khiếu nại, chức năng quản trị hệ thống (quản lý người dùng, các tham số về thời hạn, tiến độ…), chức năng sửa đổi và gia hạn, v.v.
 
Như vậy, kể từ khi phần mềm IPAS ra đời cho đến nay đã 21 năm. Mỗi năm có hàng chục phiên bản được thay đổi để vừa khắc phục các lỗi nhỏ, vừa sửa đổi cho phù hợp với các quy định của pháp luật. Phiên bản hiện tại năm 2021 là V12.02 là kết tinh của 21 năm phát triển hệ thống tự động hóa của Cục SHTT, phần mềm IPAS đã thực hiện hàng triệu thao tác, in ra hàng trăm nghìn văn bằng bảo hộ và hàng triệu công văn gửi tới các chủ đơn và các bên liên quan. Hằng ngày, không một thẩm định viên nào là không sử dụng phần mềm IPAS này để thực thi nhiệm vụ. Kể từ năm 2020, Cục SHTT, với sự trợ giúp của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), phối hợp xây dựng và đang đưa vào sử dụng phần mềm WIPO IPAS với nhiều tiện ích và phù hợp hơn với các điều kiện hiện tại, tiến tới dần thay thế hoàn toàn phần mềm IPAS cũ, nhưng có thể nói Cơ sở dữ liệu là thành quả của dự án MOIPA tạo lập thì sẽ vẫn còn tồn tại và phát triển mãi, cùng song hành với các phần mềm quản trị cũng như phần mềm tra cứu tiếp tục được cải tiến, nâng cấp của Cục SHTT.
 
Đối với phần mềm IPAS - trái tim của dự án MOIPA - đã thực hiện xong sứ mệnh cho việc tự động hóa các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của Cục. Vòng đời phát triển của phẩn mềm này là rất dài (so với vòng đời của các phần mềm khác chỉ khoảng 6-10 năm) cho thấy tầm quan trọng của phần mềm IPAS nói riêng và thành quả của dự án MOIPA nói chung là rất to lớn. 
 
Nhờ có sự thành công của dự án MOIPA, Cục SHTT tiếp tục thực hiện thành công các dự án tiếp theo cũng do Chính phủ Nhật bản tài trợ đó là Dự án UTIPINFO "Ứng dụng thông tin Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam" (2005-2009) với việc phát triển thêm một số ứng dụng tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp trên cơ sở kết quả của Dự án MOIPA, Dự án “Tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam” (tháng 6/2012- tháng 3/2017) với những kết quả đáng ghi nhận đối với hệ thống thực thi quyền SHTT của Việt Nam và Dự án “Nâng cao năng lực xử lý đơn SHCN tại Cục Sở hữu trí tuệ”(tháng 5/2021 - tháng 3/2023) mà hai bên đang hợp tác triển khai.
 
Sự thành công của dự án MOIPA chính là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc tích hợp dữ liệu khoa học công nghệ, xây dựng chính phủ điện tử, triển khai thủ tục hành chính cấp độ 4, thực hiện chuyển đổi số, v.v. mà Bộ KH&CN đang giao cho Cục SHTT thực hiện trong giai đoạn hiện nay./.
 
Một số hình ảnh hoạt động
Lễ khai trương dự án UTIPINFO, ngày 02/02/2005 tại Hà Nội.
 
Ông Phan Phụng Tuân giới thiệu thành viên Tổ công tác tại Lễ khai trương dự án UTIPINFO, ngày 02/02/2005 tại Hà Nội.
Tổ công tác và các chuyên gia Nhật Bản họp với các đối tác cung cấp phần cứng, ngày 21/7/2005.
 
Đoàn kiểm tra dự án của Đại sứ quán Nhật Bản và JICA làm việc với Phòng đăng ký, ngày 20/7/2005.
 
Buổi họp Ủy ban hỗn hợp lần thứ nhất của dự án UTIPINFO, ngày 10/5/2006.

Tổ công tác và chuyên gia Nhật Bản làm việc tại Văn phòng Đại diện Cục SHTT tại TP Hồ Chí Minh, ngày 19/8/2005.
 
Thành viên Tổ công tác làm việc tại Văn phòng đại diện Cục SHTT tại TP Đà Nẵng, ngày 22/8/2015.
 
Phan Phụng Tuân